T Năm Lĩnh vực nông nghiệp 1990 1995 2000 2005 1 Sản lượng lương thực quy thóc 31.681 tấn 34.141 tấn 47.878 tấn 52.412 tấn – Lương thực bình quân đầu người/năm 343kg 278,3kg 324kg 342kg 2 Chăn nuôi gia súc – Trâu 2.536 con 2.108 con 1.604 con 1.234 – Bò 18.116 con 23.320 con 25.869 con 29.469 con – Heo 41.350 con 53.446 con 47.213 con 58.817con Lâm nghiệp Lâm nghiệp xa xưa ở Đức Phổ phát triển một cách tự nhiên. Rừng có diện tích khá lớn, động thực vật, lâm sản khá phong phú. Những sản phẩm của rừng phần lớn phục vụ nhu cầu sinh hoạt của con người. Trong kháng chiến chống Mỹ, rừng bị tàn phá nhiều, động thực vật cũng còn lại rất ít. Ngày nay, lâm nghiệp được chú trọng và ngày càng phát triển tốc độ trồng rừng, như phủ xanh đất trống đồi núi trọc được đẩy mạnh, đặc biệt là rừng phòng hộ ven biển và các dự án trồng rừng đã và đang được triển khai có kế hoạch. Năm 2003, diện tích rừng phòng hộ của Đức Phổ tại 4 xã là 1.839ha. Diện tích rừng trồng mới là 300ha. Dự án trồng rừng KFW6 đang được triển khai. Năm 2004, trồng 856ha, chăm sóc rừng 800ha, trong đó có 100ha rừng phòng hộ. Sản lượng gỗ rừng trồng khai thác cả năm là 25.200m3, độ che phủ rừng là 21%. Tính đến năm 2005, trồng rừng 500ha, chăm sóc rừng 1.459ha, khoanh nuôi rừng tái sinh 2.246ha. Ngư nghiệp Đức Phổ có bờ biển khá dài và có hai cửa biển, thuận lợi cho ngư nghiệp phát triển. Ngư nghiệp xưa nay được xem là một thế mạnh của huyện. Từ xưa, nghề cá luôn đóng một vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế của nhân dân Đức Phổ. Từ sau năm 1975, ngư nghiệp Đức Phổ đã được phát triển hơn trước, trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của huyện, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của ngành thủy sản Quảng Ngãi nói chung. Bên cạnh việc đánh bắt và chế biến hải sản, ngư nghiệp còn có thêm một số nghề mới như: nuôi trồng thuỷ sản, nuôi tôm trên cát, nuôi cá nước ngọt trên các hồ nước. Năm 2003, toàn huyện có 690 tàu đánh cá, sản lượng khai thác là 31.545 tấn cá, tôm, cua, hải sản khác, diện tích nuôi trồng thủy sản là 75ha, sản lượng nuôi trồng là 431,7 tấn. Năm 2004, sản lượng thủy sản khai thác là 36.300 tấn; năm 2005 tăng lên 42.000 tấn, trong đó xã Phổ Thạnh chiếm 26.463 tấn, xã Phổ Quang 5.071 tấn, còn lại là các xã Phổ Vinh, Phổ Châu, Phổ An. Năm 2005, Đức Phổ có số tàu đánh cá 1.050 chiếc với tổng công suất là 87.195CV, trong đó xã Phổ Thạnh cao tuyệt đối với 671 chiếc có tổng công suất 66.308CV, xã Phổ Quang có 195 chiếc với tổng công suất 8.824CV, còn lại 4 xã khác (Phổ An, Phổ Khánh, Phổ Châu, Phổ Vinh) số tàu đều dưới 100 chiếc và tổng công suất đều dưới 700CV. Ngành nuôi trồng thủy sản ở Đức Phổ cũng nổi trội trong toàn tỉnh Quảng Ngãi. Diện tích nuôi trồng thủy sản 304,3ha, trong đó diện tích nuôi tôm là 94,3ha (diện tích nuôi tôm trên cát 46,6ha, gấp 2,3 lần năm 2003). Sản lượng thủy sản nuôi trồng là 515 tấn, trong đó tôm 410 tấn. Việc nuôi cá lồng ở các hồ, đầm ở các xã có hiệu quả. Năm 2005, ngành nuôi trồng thủy sản vẫn tiếp tục phát triển, với diện tích 381ha, sản lượng 1.181 tấn hải sản, chủ yếu là tôm. Các xã nuôi thủy sản mạnh nhất là Phổ Quang (diện tích 60,2ha tôm, sản lượng 489,4 tấn), Phổ Khánh 91,7ha (có 31,7ha tôm, sản lượng 280,7 tấn), Phổ Vinh, Phổ An, Phổ Minh, Phổ Hòa, Phổ Thạnh(8). Thủy sản là một ngành kinh tế mũi nhọn của Đức Phổ. Đức Phổ luôn đứng đầu về sản lượng thủy sản so với các huyện khác, có số tàu thuyền cao nhất. Trong tổng giá trị sản xuất thủy sản năm 2005, thì đánh bắt vẫn chiếm tỷ lệ vượt trội so với nuôi trồng (285,455 tỷ đồng so với 85,092 tỷ đồng), mặc dù ngành nuôi trồng thủy sản cũng khá phát triển. Diêm nghiệp Sa Huỳnh là nơi sản xuất muối lớn nhất ở Quảng Ngãi. Năm 1932 có 7.000 tấn muối được xuất cảng ra nước ngoài và nhiều nơi trong nước. Hiện nay, Đức Phổ có 100ha ruộng muối, có khả năng sản xuất từ 10 – 15 nghìn tấn trong năm. Song do chưa tìm được thị trường tiêu thụ, giá cả không ổn định nên sản lượng muối sản xuất chỉ dừng ở mức 7.500 tấn (2004), 8.000 tấn (2005). Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp Nghề thủ công cổ truyền đã có từ xưa ở Đức Phổ như: nghề dệt ở Thạch Bi (Sa Huỳnh); nghề gốm ở Thanh Hiếu, Chỉ Trung; nghề mộc, nghề đan võng ở Hội An, Mỹ Thuận; nghề bạc bịt tháp, chén khay đĩa ở Chỉ Trung. Ở vùng biển có các nghề: làm cá khô, tôm khô, mực khô, nước mắm, đan lưới, đánh nhợ ở Sa Huỳnh. Ngoài ra còn có các nghề như: nghề nấu đường thủ công, nghề làm bún, làm bánh tráng. Ngày nay có nhiều nghề công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp như: sản xuất vật liệu xây dựng, gạch ngói, đá chẻ, đá hoa, đóng và sửa chữa tàu thuyền. Tiểu thủ công nghiệp phát triển các làng nghề: làm chổi đót ở Phổ Phong, Phổ Thuận, Phổ Văn; làm gốm ở Phổ Khánh. Ở xã Phổ Phong đã hình thành khu công nghiệp. Tại Phổ Phong có nhà máy đường có công suất trên 1.000 tấn/ngày, nhà máy gạch ngói Phổ Phong sản xuất 14 triệu viên/năm. Năm 2004, giá trị sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp của Đức Phổ đạt 225,076 tỷ đồng, trong đó khu vực ngoài quốc doanh đạt 128,752 tỷ đồng, tàu thuyền đóng mới 30 chiếc, sản lượng muối ráo đạt 7.500 tấn, sản xuất đá xây dựng đạt 74.600m3, tỷ lệ hộ dân sử dụng điện 97%. Năm 2005, giá trị sản lượng công nghiệp tăng lên 302,670 tỷ đồng, trong đó khu vực kinh tế ngoài nhà nước chiếm 192,623 tỷ đồng. Sản xuất công nghiệp cá thể có 2.209 cơ sở với 5.820 lao động. Mục tiêu từ năm 2006 – 2010, Đức Phổ sẽ ưu tiên xây dựng 3 vùng kinh tế động lực: phát triển trung tâm thị trấn Đức Phổ lên đô thị loại IV để thành lập thị xã Đức Phổ, xây dựng vùng kinh tế văn hóa Sa Huỳnh và khu công nghiệp Phổ Phong, góp phần vào việc phát triển kinh tế – xã hội của Đức Phổ nói riêng, của tỉnh Quảng Ngãi nói chung. Thương mại – dịch vụ Việc buôn bán xưa ở Đức Phổ thường diễn ra ở các chợ, như chợ Trà Câu, chợ Cây Chay, chợ Bàu Cối, chợ Giếng Thí, chợ Sa Huỳnh. Việc mua bán lúc bấy giờ mang tính tự cấp, tự túc trong một khu vực, ít mang yếu tố buôn bán chuyên nghiệp. Cũng có một số người đi buôn núi, lên giao lưu trao đổi hàng hóa với bà con người Hrê trên nguồn Ba Tơ và một số người sắm ghe bầu đi buôn vào Nam, ra Bắc. Thương mại ngày nay phát triển nhờ hệ thống các chợ xã, có ba trung tâm thương mại của huyện là thị trấn Đức Phổ, thị tứ Sa Huỳnh (ở phía nam) và thị tứ Trà Câu (ở phía bắc). Năm 2004, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ của Đức Phổ đạt 487,6 tỷ đồng, năm 2005 là 580,25 tỉ đồng. Toàn huyện có 4.452 cơ sở kinh doanh thương mại, dịch vụ (trong đó có 2.492 cơ sở bán lẻ) với 5.172 lao động. Một đề án phát triển thương mại – dịch vụ – du lịch sẽ được thực hiện trong thời gian đến, giúp dịch vụ du lịch phát triển đúng hướng và phát huy được tiềm năng, đạt hiệu quả cao nhất trong phát triển kinh tế – xã hội của huyện. Cơ sở hạ tầng Đức Phổ có đường Thiên Lý Bắc – Nam sau này là Quốc lộ 1 chạy qua dọc theo chiều dài của huyện; có Quốc lộ 24 nối từ Quốc lộ 1 lên tỉnh Kon Tum chạy qua huyện ở khu vực xã Phổ Phong; có đường sắt Bắc – Nam song song với Quốc lộ 1. Các phương tiện giao thông đường thủy có sông Trà Câu thông thương miền xuôi với miền ngược, tuy nhiên vì lòng sông cạn nên khá hạn chế. Có hai cửa biển Mỹ Á và Sa Huỳnh là đấu mối giao thông đường thủy quan trọng, đồng thời là tụ điểm của nghề cá. Hiện nay, Đức Phổ đang thực hiện bêtông hóa giao thông nông thôn. Năm 2004, cơ bản hoàn thành thi công 18 tuyến đường ở các xã với tổng chiều dài 17,9km. Đường huyện đã nhựa cứng được 51,6km, đường xã được nhựa cứng hóa 33,06km. Về kiên cố hóa kênh mương, năm 2004 xây dựng 6 tuyến kênh với chiều dài 6,231km, góp phần phục vụ cho việc phát triển sản xuất của nhân dân trong huyện. Trước năm 1975, điện chỉ có ở các cơ quan chính quyền địch, quận lỵ hoặc các tụ điểm dân cư dọc Quốc lộ 1, dùng máy phát điện nhỏ. Sau 1975, mạng lưới điện được kéo về huyện. Đến nay tại các xã, thôn, xóm 97% số hộ đã được dùng điện cho sinh hoạt và sản xuất. Về liên lạc, thời phong kiến đến thời Pháp thuộc, việc thông tin liên lạc chủ yếu bằng ngựa trạm và có các dịch trạm. Ở Đức Phổ có trạm Nghĩa Quán (ở xã Quán Sứ), trạm có một tá dịch coi sóc và 1 lính trạm chuyên chuyển công văn, thư từ trong địa phương huyện. Nhìn chung thông tin liên lạc thời kỳ này chuyên phục vụ cho việc công, phổ biến trong nhân dân vẫn là dùng thư tay hay nhắn miệng cho người ở xa. Chính vì vậy, thông tin liên lạc thời kỳ này chưa có tác dụng đối với kinh tế – xã hội. Trải qua thời kháng chiến, thời chính quyền Sài Gòn, đến ngày nay, cùng với tốc độ phát triển khoa học công nghệ toàn cầu, ngành thông tin liên lạc đã phát triển nhanh chóng với kỹ thuật công nghệ tiên tiến, hiện đại. Hiện nay bưu điện huyện có 1 bưu cục trung tâm, 2 bưu cục cấp III, có 12 điểm bưu điện văn hóa xã, 3 đại lý đa dịch vụ và hơn 70 đại lý điện thoại được phân bố tại các vùng nông thôn. Tính đến năm 2005, số máy điện thoại cố định trên mạng đã có 10.296 máy, số máy điện thoại di động 1.230 máy. Tổng doanh thu của Bưu cục Đức Phổ là 2.150 triệu đồng (phần lớn là thu từ dịch vụ điện chính). Các dịch vụ bưu chính viễn thông đa dạng và tiện ích của mạng internet đã đáp ứng ngày càng cao nhu cầu sử dụng của cán bộ và nhân dân địa phương, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển kinh tế – xã hội, nâng cao dân trí và thực hiện công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Đức Phổ là quê hương của nền Văn hóa Sa Huỳnh nổi tiếng, được nhà khảo cổ học người Pháp phát hiện năm 1909 và được xác định niên đại cách nay khoảng 2.500 năm. Tiếp theo văn hóa Sa Huỳnh là nền Văn hóa Chămpa cũng được phát hiện ở Đức Phổ, đó là bi ký khắc trên đá bằng chữ Sanskrit (chữ Chăm cổ), văn bia này được tìm thấy tại thôn Thạnh Đức, xã Phổ Thạnh. Qua nhiều trăm năm sinh sống của người Việt, di sản văn hóa của người Việt cũng rất phong phú và đa dạng như: Lễ hội ra quân đánh bắt thủy sản đầu năm: được tổ chức tại cửa biển Sa Huỳnh vào ngày mùng 3 Tết Âm lịch hàng năm, nhằm cầu mong được mùa tôm cá trong năm mới. Hát sắc bùa: là một hình thức diễn xướng dân gian, mang tính chất nghi lễ phong tục thường diễn ra vào dịp Tết Nguyên đán. Về y tế, có Bệnh viện Đa khoa Đặng Thùy Trâm tại thị trấn Đức Phổ đã được xây dựng khang trang với 140 giường bệnh; Phòng khám đa khoa khu vực đóng tại Sa Huỳnh; 14/15 xã, thị trấn có trạm y tế và đều có bác sĩ, đảm bảo nhu cầu chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân trong huyện. Năm 2006, Bệnh xá mang tên anh hùng liệt sĩ Đặng Thùy Trâm được xây dựng ở xã Phổ Cường. Tổng số cán bộ y tế trong huyện là 178 người, trong đó có 37 bác sĩ. Công tác dân số, gia đình, trẻ em được quan tâm đúng mức. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên hiện nay giảm còn 1,18%, đã tranh thủ nguồn vốn hỗ trợ nhân đạo của các tập thể, cá nhân trong và ngoài tỉnh giúp trẻ em khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh khó khăn hòa nhập cộng đồng. Về lao động và các vấn đề xã hội, Đức Phổ hiện nay có trên 110.204 người trong độ tuổi lao động, hầu hết là làm nghề nông và ngư nghiệp. Với một lực lượng lao động lớn như vậy cho nên lao động nông thôn hàng năm sử dụng không hết, tình trạng thừa lao động thiếu việc làm đặt ra khá cấp bách. Thống kê cho thấy trong toàn huyện năm 2005 có đến 8.322 người trong độ tuổi có khả năng lao động không làm việc; 8.220 người trong độ tuổi có khả năng lao động không có việc làm; hàng năm có khoảng hơn 2.000 lao động xã hội phải đi tìm việc làm. Để giải quyết việc làm cho người lao động, hàng năm huyện đã xây dựng các dự án cho nông dân vay vốn sản xuất, phối hợp với các đoàn thể giải quyết cho một số hộ vay vốn xóa đói giảm nghèo từ nguồn vốn ngân hàng. Năm 2003, số hộ nghèo giảm 548 hộ, tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2003 giảm còn 10,77%. Năm 2004, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 8,2%. Đức Phổ có 431 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng, 6.596 liệt sĩ, 3.018 thương binh, 1.426 người bị bắt tù đày và 3.287 người hoạt động kháng chiến được hưởng trợ cấp 1 lần. Huyện đã phối hợp cùng với các cấp chính quyền, xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa. Đến năm 2004, xây dựng được 402 nhà tình nghĩa, giải quyết cứu trợ thường xuyên cho 270 người (gồm 29 trẻ mồ côi, 93 người tàn tật, 148 người già cô đơn).
Ý kiến bạn đọc (0)