Giới thiệu khái quát huyện Mỏ Cày Nam
Quá trình hình thành và phát triển
Bạn đang xem: Mỏ cày nam bến tre
Đọc thêm: Du lịch Hòn khô Quy Nhơn – Khám phá 1 vẻ đẹp hoang sơ lạ kỳ
Nhìn vào bản đồ tỉnh Bến Tre, nơi cù lao Minh, ta thấy bản đồ huyện Mỏ Cày có hình chữ nhật, bắc giáp thị xã Bến Tre và huyện Châu Thành, ngăn cách bởi dòng sông Hàm Luông, tây và tây nam giáp tỉnh Trà Vinh có ranh giới chung con sông Cổ Chiên, tây bắc giáp huyện Chợ Lách, đông và nam giáp huyện Thạnh Phú. Ngược dòng lịch sử, thời chúa Nguyễn, vùng đất Mỏ Cày nằm trong tổng Tân An, châu Định Viễn. Khi Gia Long lên ngôi vua (1802), tổng Tân An được thăng lên thành huyện, mỗi cù lao trở thành một tổng (cù lao Minh thành tổng Tân Minh, cù lao Bảo thành tổng An Bảo) thuộc phủ Định Viễn. Năm 1832, phủ Định Viễn cải thành phủ Hoằng An có hai huyện, Tân Minh và Bảo An, phần đất của Mỏ Cày thuộc huyện Tân Minh. Đến năm 1837, nghĩa là sau khi lập xong Địa bạ Minh Mạng, phủ Hoằng An (phần trên cù lao Minh) lại chia thành hai huyện: Tân Minh, lỵ sở đặt tại Ba Vát và Duy Minh, lỵ sở đặt tại Cái Quao. Phần đất của Mỏ Cày ngày nay tương ứng với 7 tổng của cù lao Minh trong số 10 tổng lúc bấy giờ. Năm 1867, Pháp chiếm xong cả Nam Kỳ Lục tỉnh, phân định lại địa giới hành chính, thì cù lao Bảo và cù lao Minh (của tỉnh Vĩnh Long cũ) thuộc tham biện Hoằng Trị, lỵ sở đặt tại Mỏ Cày (thị trấn ngày nay), nhưng đến cuối năm này, Hoằng Trị lại chia thành 2 sở tham biện: sở tham biện Mỏ Cày (tức cả phần đất cù lao Minh) và sở tham biện Bến Tre (tức cả phần đất cù lao Bảo). Ngày 1-1-1900, nghị định của Toàn quyền Paul Doumer ký ngày 20-12-1899 bắt đầu thi hành, các sở tham biện và đại lý (délégation) đổi thành tỉnh (province). Tỉnh Bến Tre được thành lập gồm cù lao Bảo và cù lao Minh, có 21 tổng (bỏ cấp huyện). Năm 1918, chính quyền thuộc địa phục hồi chế độ hành chính cấp quận (thay cho huyện làm trung gian giữa tỉnh và tổng), lúc bấy giờ tỉnh Bến Tre chia làm 4 quận. – Cù lao Bảo: Quận Châu Thành và quận Ba Tri. – Cù lao Minh: Quận Mỏ Cày và quận Thạnh Phú. Quận Mỏ Cày lúc bấy giờ gồm 8 tổng, 27 thôn. Sau CMT8-1945, quận Mỏ Cày có 29 xã và một thị trấn. Đầu năm 1946, sau khi hai tỉnh Bến Tre và Vĩnh Long bị giặc Pháp chiếm, để tiện việc chỉ đạo và việc đi lại hoạt động của cán bộ, tỉnh Vĩnh Long đã cắt giao 5 xã ở phía tây nam cù lao Minh về Bến Tre, để sáp nhập vào huyện Mỏ Cày. Đến đầu năm 1947, 14 xã phía bắc Mỏ Cày được cắt ra, sáp nhập cùng 5 xã do tỉnh Vĩnh Long giao trước đó, lập thành một huyện mới lấy tên là Chợ Lách trực thuộc tỉnh Bến Tre. Trong thời chống Mỹ, để việc chỉ đạo được sát, kịp thời và thuận tiện cho việc đi lại hoạt động, Mỏ Cày được chia thành 2 huyện: Mỏ Cày Bắc (gồm 16 xã) và Mỏ Cày Nam (gồm 13 xã), lấy con sông Mỏ Cày làm ranh giới. Trong khi đó (1956), chính quyền Sài Gòn chủ trương đổi tên tỉnh Bến Tre thành tỉnh Kiến Hòa gồm 3 cù lao và chia thành 10 quận: Châu Thành, Bình Đại (cù lao An Hóa), Hàm Long, Giồng Trôm, Ba Tri (cù lao Bảo), Chợ Lách, Đôn Nhơn, Mỏ Cày, Hương Mỹ, Thạnh Phú (cù lao Minh) và thị xã Bến Tre được đổi thành Trúc Giang. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30-4-1975), tỉnh chủ trương tách 5 xã Hưng Khánh Trung, Vĩnh Thành, Vĩnh Hòa, Phú Mỹ, Phú Sơn của Mỏ Cày, sáp nhập vào huyện Chợ Lách. Các xã còn lại của Mỏ Cày Bắc và Mỏ Cày Nam hợp thành huyện Mỏ Cày với tổng số xã là 26 và một thị trấn. Đó là các xã Đa Phước Hội, An Thạnh, An Thới, Thành Thới A, Thành Thới B, Cẩm Sơn, Ngãi Đăng, Hương Mỹ, Minh Đức, Tân Trung, An Định, Bình Khánh Đông, Bình Khánh Tây, Phước Hiệp, Định Thủy, Hòa Lộc, Thành An, Thanh Tân, Phước Mỹ Trung, Tân Phú Tây, Tân Thanh Tây, Khánh Thạnh Tân, Nhuận Phú Tân, Tân Thành Bình, Thạnh Ngãi, Tân Bình và thị trấn Mỏ Cày. Với dân số 265.938 người (4/1999), mật độ bình quân 752/người/km2, huyện Mỏ Cày có số dân đông nhất so với các huyện trong tỉnh, gấp hai lần Chợ Lách, bằng cả dân số của hai huyện Thạnh Phú và Chợ Lách cộng lại và xấp xỉ bằng dân số của tỉnh Bến Tre năm 1925. Về mật độ dân số, Mỏ Cày chỉ kém thị xã và huyện Châu Thành. Được hình thành từ nguồn phù sa của hai con sông lớn Hàm Luông và Cổ Phiên bồi đắp qua nhiều thế kỷ, Mỏ Cày có địa hình tương đối bằng phẳng, gồm những cánh đồng lúa, những ruộng mía và vườn cây ăn trái thỉnh thoảng xen kẽ một số cồn cát. Ngoài hai con sông lớn cặp hai bên bờ cù lao, Mỏ Cày còn có nhiều sông nhỏ và vừa (có sông rộng từ 100 đến 200m như sông Cái Cấm, sông Mỏ Cày, sông Thom) và những con rạch chia cắt dọc ngang, rất thuận lợi về mặt giao thông thủy. Làng mạc được bao bọc bởi những con sông và ven sông thường là những vườn dừa, vườn cây ăn trái khác và những rừng dừa, rừng cây ăn trái khác và những rừng dừa nước, rừng bần tạo thành một khung cảnh thiên nhiên, với màu xanh bất tận. Đến mùa thu hoạch mía, hàng trăm lò đường đặt dọc theo ven sông tỏa ra trong không gian một mùi thơm ngào ngạt của những chảo mật mía đang sôi – mùi thơm đặc biệt dân dã ấy chỉ có thể bắt gặp được ở những vùng quê chuyên sản xuất mía đường. Đất đai Mỏ Cày rất thích hợp cho sự tăng trưởng của 3 loại cây chính: lúa, dừa và mía. Hai loại cây sau tạo thành thế mạnh về cây công nghiệp của huyện, mang lại cho nền kinh tế Mỏ Cày hàng năm một nguồn thu to lớn. Một đặc sản khác nổi tiếng của Mỏ Cày là cây thuốc lá, đặc biệt thuốc trồng ở những con giồng thuộc các xã Đa Phước Hội, An Thạnh, vùng quanh thị trấn và vùng phía tây bắc Mỏ Cày. Là vùng đất màu mỡ, được thiên nhiên ưu đãi về mặt sản xuất nông nghiệp (trừ một ít xã vùng nam Mỏ Cày, hàng năm vào những tháng gió chướng, nước biển dâng lên, nên đồng ruộng bị nhiễm nước lợ, năng suất cây trồng bị ảnh hưởng, còn đại đa số ruộng đất được tưới nước ngọt của hai con sông Hàm Luông và Cổ Chiên), con người ở đây lại siêng năng, cần cù, có nhiều sáng tạo trong sản xuất, do đó nhìn chung đời sống dân chúng khá sung túc. Tuy nhiên, với diện tích đất nông nghiệp trong toàn huyện (26.000 ha) so với số dân, bình quân diện tích tính theo đầu người thấp, cho nên muốn nâng cao nhanh chóng đời sống của nhân dân ở đây không thể chỉ trồng cây đơn thuần những hoa lợi từ đất, mà phải mở ra một phương hướng mới trong phát triển kinh tế. Hiện nay, An Thạnh và Khánh Thạnh Tân đã trở thành hai làng nghề thủ công làm chỉ xơ dừa xuất khẩu lớn nhất của tỉnh. Kế hoạch mở rộng và phát triển thủ công nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản, vừa để sử dụng hết sức lao động dư thừa của địa phương, vừa tăng cao giá trị, chất lượng của sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu. Nói đến truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của nhân dân Mỏ Cày, người ta thường nhắc đến những nhân vật như Nhiêu Đẩu, Nhiêu Gương, Tú Khanh, Tú Kiều, những người thuộc thế hệ chống Pháp đầu tiên khi chúng đặt chân đến mảnh đất này. Nhưng có lẽ đỉnh cao của phong trào, và cũng là niềm tự hào lớn nhất của Mỏ Cày, vẫn là vị trí “cái nôi của cuộc Đồng khởi” trong thời chống Mỹ. Phát pháo hiệu đầu tiên vút lên từ nơi làng quê Định Thủy, Bình Khánh, Phước Hiệp giữa đêm đen tù ngục của chế độ Mỹ, Diệm (17-1-1960) đã mở ra một thế trận mới của chiến tranh nhân dân, làm đảo lộn thế cờ, đẩy bọn thống trị vào thế bị động triền miên không lối thoát. Sự ra đời của “đội quân tóc dài”, mà tiếng vang của nó đã vượt ra ngoài biên giới Bến Tre nói chung và Mỏ Cày nói riêng. Cái đáng nói ở đây không chỉ ở lòng hy sinh, dũng cảm, ở ý chí bất khuất của con người, mà còn ở tính chất quần chúng rộng lớn, giàu tính năng động của cuộc đấu tranh giáp mặt với kẻ thù. Do lợi thế về địa hình và ý thức giác ngộ cách mạng cao của quần chúng, Mỏ Cày được chọn làm nơi căn cứ an toàn của tỉnh, của thành phố Hồ Chí Minh trong suốt cả hai cuộc Kháng chiến chống Pháp và Kháng chiến chống Mỹ. Người dân Mỏ Cày đóng góp biết bao công sức, tiền của, máu xương cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Chỉ kể riêng số liệt sĩ đã có hơn 15.000 người. Hàng vạn người yêu nước khác bị tù đày, tra tấn dã man đến tàn phế. Nhưng sức mạnh của vũ khí và mọi thủ đoạn tàn bạo, gian ác của kẻ thù đã không khuất phục được nhân dân ở nơi đây. Tổng kết cuộc chiến tranh giải phóng, Mỏ Cày có 17 xã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND và 15 cá nhân Anh hùng LLVTND, 463 bà mẹ Việt Nam anh hùng. Đó là những hình ảnh tiêu biểu của phong trào cách mạng Mỏ Cày. Thực ra, còn biết bao nhiêu tấm gương yêu nước tuyệt vời, có tên hoặc không tên khác, mà xã thôn nào cũng có. Mỏ Cày cũng là mảnh đất có trữ lượng văn hóa dân gian đáng kể. Các xã An Định, Minh Đức, Hương Mỹ được coi như là cái nôi của những làn điệu dân ca gắn liền với tên tuổi những nghệ nhân nổi tiếng một thời như Phan Văn Trọng, Nguyễn Văn Cẩn (xã An Định), Nhì Dách, Tám Lé, Tám Đẩu (xã Minh Đức), Năm Nữ, Chín Hổ, Hai Thái (xã Hương Mỹ). Những câu hát, câu ca dân gian sưu tập được ở Mỏ Cày phản ánh khá đầy đủ quá trình khai phá đất đai từ những buổi đầu còn là rừng hoang đầy cọp, cá sấu đến những cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột của phong kiến và thực dân, từ những ngày Kháng chiến chống Pháp 9 năm đến cuộc Đồng khởi long trời lở đất của thời chống Mỹ. Trong 25 năm qua, từ sau ngày giải phóng (1975 – 2000), nhân dân huyện Mỏ Cày dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ và UBND huyện đã đạt được những thành tích đáng tự hào trong công cuộc xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, nâng cao đời sống của nhân dân. Huyện đã tập trung sức phát triển sản xuất nông nghiệp, kết hợp với tiểu thủ công nghiệp, chế biến, sắp xếp bố trí lại cây trồng, vật nuôi, từng bước ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chủ yếu là cây trồng và vật nuôi, đem lại giá trị kinh tế cao. Hiện nay diện tích đất trồng dừa của huyện là 8.500 ha, đất trồng mía 6.300 ha, đất trồng lúa 3.000 ha. Nhìn chung, diện tích các loại cây này có giảm, nhưng nhờ áp dụng khoa học kỹ thuật, thâm canh, đưa giống mới vào thay thế những giống cũ, thoái hóa, nên năng suất tăng nhanh. Mía đạt từ 100 – 120 tấn/ha, lúa tăng lên 3 vụ, sản lượng bình quân từ 40 đến 42 tạ/ha. Trong khi đó diện tích cây ăn quả, gồm nhiều loại như nhãn, bưởi, cam, quýt, chôm chôm, sapôchê tăng lên 6.430 ha. Chăn nuôi cũng có bước phát triển đáng kể. Đàn heo siêu thị tăng, có năm đạt đến 100 ngàn con. Gia cầm tăng gấp hai lần. Nổi bật nhất là việc sử dụng mặt nước ao hồ, mương vườn để nuôi tôm càng xanh, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Diện tích mặt nước đang sử dụng tăng gấp 5 lần so với trước. Công tác khuyến nông được quan tâm, xem đây như một biện pháp tốt nhất để đẩy nhanh phát triển nông nghiệp. Việc tận dụng nguyên liệu tại chỗ từ cây mía, cây dừa được coi như là điều kiện để phát triển thủ công nghiệp như: xe chỉ xơ dừa, kết thảm, làm than thiêu kết, ép dầu, lò đường, cối kết, kẹo dừa. Những nghề truyền thống được phục hồi như chằm nón, đóng ghe, làm gạch ngói, lại phát triển thêm những nghề mới như may banh gia công, thêu xuất khẩu, chế biến thức ăn gia súc. Ngay từ đầu sau ngày giải phóng, trên cơ sở xác định thế mạnh là sản xuất nông nghiệp, lãnh đạo huyện đã chú trọng đến việc đầu tư cho công tác thủy lợi. Và công tác này được từng bước phát triển hoàn chỉnh. Các kênh rạch được nạo vét thường xuyên. Đặc biệt, những công trình ngăn mặn ở Vàm Đồn, Cái Lức, Rạch Đập, Vàm Tân Hưng… trữ nước ngọt phục vụ trên 40.000 ha diện tích canh tác. Lưới điện quốc gia đã được kéo về phủ khắp 26/26 xã và 1 thị trấn. Số hộ dân sử dụng điện đạt 60% trong tổng số hộ của toàn huyện. Mạng lưới điện thoại đã được nối kết 26/26 xã và 1 thị trấn. Toàn huyện có một trạm bưu điện, 8 bưu cục và 9 điểm bưu điện văn hóa xã. Bình quân 1,6 máy/100 dân. Cho đến nay, hệ thống giao thông trong huyện, cả đường thủy và đường bộ được nối liền thông suốt đến tận vùng sâu, vùng xa. Không kể hệ thống quốc lộ 60, 57, tỉnh lộ 888, 882, các tuyến đường trong huyện dài 61 km, đường liên xã dài 180 km và đường liên ấp dài 494 km đã được nâng cấp, tạo sự đi lại, vận chuyển thuận lợi cho người dân. Cầu khỉ, về cơ bản đã được xóa, thay thế bằng cầu bê-tông. Xe 4 bánh có thể đến được trung tâm 26/26 xã và 1 thị trấn trong huyện. Sự nghiệp văn hóa, giáo dục đã có bước phát triển vượt bậc so với trước kia. Toàn huyện hiện có 13 trường mẫu giáo độc lập, 16 đơn vị còn gắn với trường phổ thông, 27 trường tiểu học, 15 trường trung học cơ sở, 5 trường phổ thông trung học. Những lớp học ca ba đã hoàn toàn xóa bỏ. Số trẻ 6 tuổi ra lớp đạt gần 100%, 27/27 xã được công nhận phổ cập giáo dục tiểu học. Tỷ lệ học sinh giỏi mỗi năm một tăng. Điều đáng ghi nhận là số học sinh thi đỗ vào cao đẳng và đại học ngày một đông. Việc chăm lo giáo dục đã trở thành mối quan tâm của toàn dân. Ông Nguyễn Văn Cảnh ở xã Hương Mỹ đã hiến gần 1 ha đất để xây dựng trường phổ thông trung học. Vợ chồng ông Đặng Văn Thành, 9 năm liền tặng trên 100 suất học bổng (mỗi suất 200.000đ) cho trường tiểu học cơ sở xã An Thạnh. Và còn biết bao gương sáng có những đóng góp tiền của, công sức cho sự nghiệp “trồng người”. Mức hưởng thụ văn hóa của người dân trong huyện ngày càng được nâng cao. Số hộ có phương tiện nghe nhìn chiếm 86,15%. Đài truyền thanh huyện, thư viện huyện cùng với 26 đài xã và trên 30 trạm truyền thanh ấp đã góp phần không nhỏ “xóa đói” thông tin trong nhân dân. Nhiều cuộc thi, hội diễn, liên hoan văn nghệ được tổ chức thường xuyên đã góp phần làm cho sinh hoạt ở nông thôn rộn rịp, tươi vui. Cuộc vận động “xây dựng nông thôn mới”, “xây dựng gia đình văn hóa”, “xây dựng ấp văn hóa” đã làm cho nông thôn Mỏ Cày có bước đổi thịt thay da thật sự. Một bệnh viện khu vực hiện đại 200 giường bên cù lao Minh được xây dựng tại thị trấn Mỏ Cày và đi vào hoạt động vào giữa năm 2000 sẽ kết hợp với hệ thống y tế đã có của huyện cùng với đội ngũ y bác sĩ, cán bộ chuyên môn, tạo nên nhiều thuận lợi mới trong công tác chăm lo sức khỏe của người dân. Là một huyện có số dân đông nhất tỉnh, có tiềm năng đất đai phong phú, có nguồn nhân lực dồi dào, nhân dân có trình độ giác ngộ và có truyền thống yêu nước, lại nằm trên một địa bàn có nhiều thuận lợi trong giao lưu kinh tế với bên ngoài, huyện Mỏ Cày có đầy đủ những yếu tố để đẩy nhanh tốc độ xây dựng kinh tế và phát triển văn hóa. Những thành tích đã đạt được là quan trọng, cần được ghi nhận. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt được, còn không ít vấn đề đang tồn tại cùng những khó khăn đòi hỏi một năng lực và quyết tâm cao để giải quyết và vượt qua. Tốc độ phát triển kinh tế, nhìn trên toàn cục còn chậm, thu nhập bình quân đầu người còn thấp so với một số huyện bạn, còn 8.406 hộ nghèo (chiếm 13,3%) trong đó 749 hộ nghèo thuộc diện chính sách (chiếm 8,9%), lực lượng lao động nhàn rỗi thiếu việc làm thường xuyên còn ở mức 10%. Giải quyết các vấn đề đang còn tồn tại là một bài toán không đơn giản, đầy thách thức. Hy vọng Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Mỏ Cày sẽ nỗ lực phát huy hết năng lực và kinh nghiệm đã tích lũy được, với tinh thần “Đồng khởi” năm xưa, bước vào trận đánh mới, sớm đưa cuộc sống của hơn 26 vạn dân Mỏ Cày sớm đến ấm no, hạnh phúc và văn minh.
Ý kiến bạn đọc (0)